Nên sinh mổ hay sinh thường, đó là câu hỏi băn khoăn của nhiều chị em. Ngày nay rất nhiều chị em chọn phương pháp đẻ mổ thay vì đẻ thường theo tự nhiên. Một phần lý do là sợ đau và liên quan đến vấn đề thẩm mỹ.
Trong sản khoa việc sinh mổ hay sinh thường đều có ưu điểm và bất lợi mà cả bác sĩ và bà mẹ mang thai phải cân nhắc. Cần có sự lựa chọn chính xác trong từng trường hợp cụ thể để có sức khỏe tốt nhất cho cả mẹ và bé.
Không nên quá cứng nhắc, nhất định chọn sinh thường trong trường hợp thai nhi quá to, cần lấy ra gấp, hay người mẹ không đủ sức chịu đựng cuộc chuyển dạ. Tuy nhiên, sinh mổ không phải là lựa chọn đúng đắn khi có đủ bằng chứng cho thấy người mẹ có thể sinh thường dễ dàng.
Ưu điểm của sinh thường
Sản phụ khi thấy có những triệu chứng sau thì không nên sinh thường mà nên mổ lấy thai để đảm bảo an toàn:
Về phía sản phụ:
Ngày nay bằng nhiều phương tiện khác nhau như: khám lâm sàng, siêu âm, monitor sản khoa theo dõi tim thai cơn gò, chụp X-quang khung chậu, xét nghiệm máu… bác sĩ có thể đánh giá và tiên lượng cuộc sinh. Những tuần cuối từ tuần thứ 35 trở đi các mẹ nên đi khám thường xuyên để các bác sỹ theo dõi và sẽ hướng dẫn bạn nên đẻ mổ hay đẻ thường để bạn chuẩn bị tinh thần.
Để giảm thiểu rủi ro, ngay từ giai đoạn trước khi mang thai, chị em cần phải chuẩn bị đầy đủ về sức khỏe nói chung, tiêm ngừa các bệnh có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Khi mang thai cần khám thai định kỳ, làm đầy đủ các xét nghiệm cần thiết theo chỉ định bác sĩ.
Trong quá trình theo dõi sự phát triển thai nhi, các bác sĩ sẽ đánh giá và tiên lượng cuộc sinh: Nên sinh thường hay sinh mổ, nên sinh ở bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh hay tuyến trung ương. Nhìn chung dù là trường hợp thai của bạn là sinh mổ hay sinh thường thì bạn cũng không nên quá lo lắng vì sinh đẻ là một hiện tượng rất tự nhiên mà rất nhiều phụ nữ đã làm được, chuẩn bị thật tốt tâm lý cho quá trình sinh đẻ của mình.
Trong sản khoa việc sinh mổ hay sinh thường đều có ưu điểm và bất lợi mà cả bác sĩ và bà mẹ mang thai phải cân nhắc. Cần có sự lựa chọn chính xác trong từng trường hợp cụ thể để có sức khỏe tốt nhất cho cả mẹ và bé.
Không nên quá cứng nhắc, nhất định chọn sinh thường trong trường hợp thai nhi quá to, cần lấy ra gấp, hay người mẹ không đủ sức chịu đựng cuộc chuyển dạ. Tuy nhiên, sinh mổ không phải là lựa chọn đúng đắn khi có đủ bằng chứng cho thấy người mẹ có thể sinh thường dễ dàng.
Cần có sự lựa chọn chính xác trong từng trường hợp cụ thể để có sức khỏe tốt nhất cho cả mẹ và bé. Ảnh: Getty Images
Ưu điểm của sinh thường
- Những đứa trẻ được sinh ra bằng đường mổ dễ phát sinh hội chứng ngạt thở hơn so với những đứa trẻ được đẻ bằng cách thông thường. Nguyên nhân là do việc đẻ thường sẽ thúc đẩy nang phổi mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hô hấp tự động của thai nhi sau khi sinh ra.
- Khi đẻ thường tử cung co vào có quy luật và mở ra khi sắp đẻ làm tăng tính đàn hồi của phôi thai, giúp phổi của thai nhi được tập luyện, sự co giãn của tử cung sẽ cung cấp khá nhiều ôxy và các kích tố cho trung ương hô hấp của phần não.
- Khi đẻ thường, do tác dụng của áp lực khi sinh, có thể khiến nước ối và chất nhầy trong phổi, khoang mũi và khoang miệng của thai nhi tiết ra, giảm thiểu phát sinh bệnh của thai nhi. Trong khi đó, mổ đẻ không có tác dụng này.
- Đẻ thường làm cho âm đạo nở rộng ra tự nhiên, có lợi cho bài tiết sản dịch và cũng có lợi cho việc hồi phục tử cung sau khi đẻ.
Sản phụ khi thấy có những triệu chứng sau thì không nên sinh thường mà nên mổ lấy thai để đảm bảo an toàn:
Về phía sản phụ:
- Khung chậu hẹp, khung chậu méo, hoặc khung chậu giới hạn và ước lượng cân thai không nhỏ, nứt hoặc vỡ xương chậu trước đó.
- Bị bệnh lý không thể sinh thường được: herpes sinh dục đang tiến triển, sùi mào gà, bệnh tim nặng.
- Tiền sản giật nặng hoặc sản giật nhưng cổ tử cung không thuận tiện để sinh ngả âm đạo.
- Có vết mổ cũ trên thân tử cung: mổ bóc nhân xơ, mổ tạo hình tử cung, mổ lấy thai từ 2 lần trở lên.
- Có những khối u cản đường ra của thai nhi (được gọi là u tiền đạo) như u xơ tử cung nằm thấp, u nang buồng trứng nằm thấp.
- Thai phụ trên 35 tuổi.
- Thai phụ mắc hội chứng cao huyết áp nặng và vừa, từng chữa trị mà không khỏi.
- Tử cung có dấu hiệu vỡ, cơn co thắt tử cung yếu, khiến quá trình sinh sản kéo dài, mặc dù dùng nhiều biện pháp xử lí vẫn không có hiệu quả.
- Thai suy.
- Con quý, hiếm (thụ tinh ống nghiệm, lâu ngày mới có con, mẹ trên 40 tuổi mới có con đầu lòng).
- Thai suy dinh dưỡng.
- Ngôi thai bất thường: ngôi ngang, ngôi mông.
- Thai to (4 kg trở lên)
- Nhau tiền đạo, nhau bong non.
- Ối vỡ lâu nhưng cổ tử cung không mở.
- Thiểu ối nặng hoặc vô ối.
Ảnh minh họa
Để giảm thiểu rủi ro, ngay từ giai đoạn trước khi mang thai, chị em cần phải chuẩn bị đầy đủ về sức khỏe nói chung, tiêm ngừa các bệnh có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Khi mang thai cần khám thai định kỳ, làm đầy đủ các xét nghiệm cần thiết theo chỉ định bác sĩ.
Trong quá trình theo dõi sự phát triển thai nhi, các bác sĩ sẽ đánh giá và tiên lượng cuộc sinh: Nên sinh thường hay sinh mổ, nên sinh ở bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh hay tuyến trung ương. Nhìn chung dù là trường hợp thai của bạn là sinh mổ hay sinh thường thì bạn cũng không nên quá lo lắng vì sinh đẻ là một hiện tượng rất tự nhiên mà rất nhiều phụ nữ đã làm được, chuẩn bị thật tốt tâm lý cho quá trình sinh đẻ của mình.
Theo ebe.vn